Prière à Saint Avé
Merci Saint Avé
De Votre havre de paix
Pour un émigré.
Tạm dịch :
Lạy Thánh Avé
Lạy ơn Thánh Avé
Đất lành chim đậu êm ái ghê
Ngài biếu người xa quê.
Prière à Saint Avé
Merci Saint Avé
De Votre havre de paix
Pour un émigré.
Tạm dịch :
Lạy Thánh Avé
Lạy ơn Thánh Avé
Đất lành chim đậu êm ái ghê
Ngài biếu người xa quê.
Kiểm duyệt
Anh chưa viết xong cuốn truyện giỡn
Họ đã gán ngay chữ ích xì,
Trách anh sao dâm đãng quá trớn,
Lo gì, thây kệ tụi ngu si.
Các cụ ta xưa rất thú vị
Đọc sách Tàu như Kim Bình Mai
Và bao tố nữ thời Minh trị,
Nay luật lại bịt mắt bịt tai.
Bây giờ kiểm duyệt vớ vẩn thật,
Coi độc giả chẳng khác trẻ con,
Viết ngoài luật pháp là bị phạt
Và tác giả còn phải chịu đòn.
Traduction :
Censure
Tu n’as pas terminé ton recueil si amusant
Qu’on lui colle déjà la grosse lettre X,
Te reprochant d’être un petit cochon lubrique,
Allons, laisse, tant pis pour ces grands ignorants.
Nos anciens pouvaient se distraire librement
En lisant des livres chinois tels Jin Ping Mei1
Et bien d’autres romans d’amour Ming sans pareils,
Maintenant on nous bouche les sens légalement.
La censure déploie sa pauvre mascarade,
Prenant les lecteurs pour de minables enfants,
Hors la loi les écrits auront des châtiments
Et leurs auteurs risquent même une bastonnade.
1 : Jin Ping Mei cihua, grand roman érotique chinois de l’époque Ming (Fleur en Fiole d'Or, traduction et annotation par André Lévy, Bibliothèque de la Pléiade, Gallimard, 1985, 2
vol.).
Comme une hirondelle
L’inspiration, fugace hirondelle,
S’en vient et puis s’en va à tire-d’aile,
Combien de belles chansons de printemps
Nous resteront en tous ces mauvais temps ?
Ils s’envolent aussi, ces maudits ans,
Gravant leurs marques par des nuits d’orage,
Et le cœur rempli de larmes de rage
Ne trouve point le vide du néant.
Tạm dịch :
Tựa con én
Thi hứng tựa con chim én,
Lượn tới bay đi cánh nhẹn,
Còn lại bao bài hát xuân
Khi trời xấu cứ xoay vần ?
Năm tháng cũng bay chẳng ngừng,
Chạm dấu vết trong đêm bão,
Lòng tức tối đầy nước mắt
Khó tìm được cõi vô không.
Gửi anh…
Khi anh bắn chết người bên kia sông,
Có tiếc không anh xương Lạc máu Hồng ?
Dưới lá cờ màu vàng hay màu đỏ,
Bốn ngàn năm văn hiến anh bỏ xó
Để phục vụ một chủ nghĩa lai căng
Thâm hiểm hứa hẹn ngày mai vinh quang
Độc lập rồi lại tự do dân chủ
Thúc anh giết cả bà con máu mủ.
Ngày nay Mỹ Cộng hợp tác không ngừng,
Anh ạ, chúng ta đều bị mọc sừng !
Traduction :
À frère…
Quand tu massacrais ceux de l’autre rive avec ton canon,
Regrettais-tu les os des Lạc et le sang des Hồng1 ?
Jaune ou rouge, tu trouvais ta bannière si belle
Pour jeter nos quatre mille ans de civilisation à la poubelle
Et servir fidèlement une idéologie importée
Qui perfidement promettait la gloire tant rêvée
D’indépendance, de démocratie et de liberté
Mais qui te poussait à tuer des compatriotes sans pitié.
À présent Ricains et Cocos se font ami ami sans arrêt,
Oui frère, nous avons été tous bêtement cocufiés !
1: Lạc et Hồng étaient les ancêtres légendaires des Viêtnamiens.
Xuân lạnh
Xuân này làm tiếc xuân xưa,
Xuân đây sao cứ hay mưa trong lòng,
Xuân rồi mà rét hơn đông,
Gió tây trăng lạnh bút không khoái gì,
Bút chơi chốc lát bỏ đi
Bay theo gió buốt đúng khi xuân ngừng,
Mực than không biết bao chừng
Bút đem gió nóng về mừng đón xuân.
Mực khô bút kẻ vài vần
Thơ say lẩn thẩn kể ngàn nhớ thương,
Thương chi thôi cũng là thường
Dưới trời hiu quạnh vấn vương đêm dài.
Nhớ mùi nhẹ thoảng hoa nhài,
Nhớ cành hoa trắng anh cài tóc em,
Nhớ khi trăng sáng soi đêm
Chúng mình thủ thỉ bên thềm nhà ta,
Nhà ta nay thật quá xa,
Xuân về chỉ biết ba hoa ít dòng.
Traduction :
Printemps froid
Ce printemps fait regretter certains printemps du passé,
Il pleut souvent en ce printemps dans mon cœur désolé,
Le printemps est là mais le froid est pire qu’en hiver,
Et sous le vent d’ouest et la lune froide ma plume a l’esprit de travers,
Elle s’amuse un peu mais quitte le jeu rapidement
En s’envolant avec la bise dès l’arrivée du printemps,
L’encre se lamente de ne point savoir quand
La plume ramènera du vent chaud pour fêter la saison dignement.
À l’encre desséchée la plume a tracé quelques rimes,
De pauvres vers ivres de la nostalgie qui la mine,
Des regrets qui remplissent sa vie ordinaire
Sous le ciel désert des longues nuits solitaires.
Qu’il me manque le doux parfum du jasmin,
Ces fleurs blanches que je piquais dans tes cheveux bruns,
Lors des belles nuits de clair de lune radieux
Où sous la véranda nous nous faisions des confidences tous les deux,
Mais là où nous vivions est maintenant si lointain,
Et en ce printemps je ne sais écrire que ce poème bien vain.
Chuyện với trăng
Sao mày chẳng rời chuyện cá nhân,
Phì phèo thổi khói thuốc lên trăng,
Say sưa để hồn bay với gió,
Thơ thẩn ba hoa kể lăng nhăng ?
Suốt đời mày chạy lông bông,
Vớ vẩn theo đuổi bao sự cuồng,
Nay già mà còn ngu như thế,
Ở tây mà lại thèm gió đông.
Trăng ơi, ta chỉ biết vậy thôi,
Gió tây trăng lạnh quen lắm rồi,
Mây mưa tuổi cao đâu dám ước,
Ngước về thời cũ tình đành nguôi.
Traduction :
Dialogue avec la lune
Pourquoi toujours tes histoires égocentristes,
Sans cesser d’envoyer tes fumées vers la lune,
T’enivrer pour qu’au vent ton âme trouve fortune,
Et écrire des poèmes complètement fantaisistes ?
Toute ta vie à partout vagabonder,
Et courir bêtement après des chimères,
Même vieux, la sagesse ne te vient guère,
Ici dans l’ouest, ton amour de vent d’est paraît déplacé.
Ô lune, je ne sais que vivre ainsi,
Vent d’ouest et lune froide, vous êtes devenus mes amis,
À mon grand âge, je ne rêve plus de nuages et pluie1,
Et les temps anciens se refroidissent en vague envie.
1. "Nuages et pluies": jeux de l'amour.
Des cris dans la nuit
Il y en a qui,
L’âme en détresse
Et le cœur nu
Avide de caresses,
Envoient des vers exquis,
Des mots tout crus,
Délicieusement fous,
Sur rien et sur tout,
Sans but,
Des cris dans la nuit,
Quand le ciel est si noir
Et que la lune a froid.
Mais j’en suis ravi,
Jamais las
De les recevoir
Et partager leur désespoir.
Que voulez-vous,
Ici ou là-bas,
On est tous comme çà,
Malgré nous !
Tạm dịch :
Tiếng kêu trong đêm
Có nhiều người,
Hồn cực khổ,
Lòng trần truồng
Cần xoa vuốt,
Viết văn thơ,
Lời chẳng hiền,
Vui cuồng điên,
Kể này kể nọ,
Lăng băng,
Tiếng kêu trong đêm,
Khi trời đen tối
Trăng lạnh bối rối.
Nhưng mình thích ghê,
Chẳng bao giờ chê,
Vần nào cũng đón
Để san thất vọng.
Chỉ vậy, bạn ơi,
Bên nhà hay đây,
Chúng mình cùng bầy,
Dù chẳng muốn chơi.
Thơ thẩn
Khi vui sướng khó tìm thơ,
Phải bao đau khổ mới mơ được vần ?
Đông đang giá buốt chờ xuân,
Lòng sao hiu quạnh vấn vương việc đời,
Thôi đừng chế nữa bút ơi,
Mày cười ta quẳng, hết chơi với mày.
Trên trời gió đuổi ngàn mây
Cho trăng ghé đến để khuây buồn dài,
Một mình tâm sự với ai,
Ngoài trăng, ngoài gió, đêm nay còn gì ?
Traduction :
Solitaire
Les moments heureux empêchent la poésie,
Mais pour quelques rimes, faut-il une chienne de vie ?
En cet hiver glacial loin du printemps,
Mon cœur s’empêtre dans son isolement,
Eh plume, ne te moque pas, veux-tu,
Sinon je te balance et ne jouerai plus.
Dans le ciel le vent chasse mille nuages
Pour que la lune revienne faire le ménage,
Et moi solitaire, à qui puis-je confier mes sentiments
Cette nuit, en dehors de la lune et du vent ?
Tạm biệt Hà Nội
Cộng quốc chiến tranh gây khổ quá
Đẩy bao kẻ sĩ bạt tứ phương,
Lòng ta sao không hóa thành đá
Để rêu che phủ mọi vết thương.
Bụi đời nay dày băm mấy lớp,
Vứt đi tất cả chuyện bực buồn,
Cùng làm con một nhược tiểu quốc
Thôi đừng tiếp tục cãi nhau luôn.
Các bác ở lại, tôi về Pháp,
Cành bên đó, rễ bám bên ni,
Hồn bay theo gió vui chốc lát,
Vài vần tạm biệt, nói thêm gì ?
Traduction :
Au revoir Hanoi
De leurs guerres communistes et nationalistes ont laissé trop de misères
Et exilé tant de lettrés aux quatre coins de la terre,
Pourquoi ne sommes-nous pas changés en pierre dure
Afin que la mousse nous habille les blessures.
Les poussières de la vie ont posé plus de trente couches,
Jetons bas à présent toutes ces tristesses,
Enfants du même petit pays, levons donc le pouce
Et taisons nos longues querelles en vitesse.
Vous restez, et moi je repars en France,
Les branches poussent là-bas, mais la racine s’accroche ici,
Mon âme emportée par le vent a connu une courte réjouissance,
À part ces vers d’au revoir, que dire plus sans un cri ?
Les poèmes viêtnamiens en ‘‘six huit’’
La langue viêtnamienne est monosyllabique, mais comporte cinq accents ‘‘phonémiques’’ qu’on peut ajouter à une même voyelle, ce qui donne six mots différents d’un même son de base. Cette constitution rend la langue viêtnamienne très difficile pour les étrangers mais lui donne aussi une très grande musicalité : ‘‘Parce que comme si ce peuple naissait avec un organe bien juste et bien réglé, et dans une parfaite intelligence avec ses poumons, et qu’il fût naturellement maître de musique, il ne prononce jamais de paroles qu’en les proférant il ne les accompagne de quelques inflexions de voix, et qu’il ne les débite en air, de sorte qu’il est vrai de dire que de parler et de chanter chez les Tunquinois est une même chose’’ (Giovanni Filippo de Marini, Relation nouvelle et curieuse du royaume de Tunquin, 1663, p. 171).
Depuis longtemps, les six sons issus des accents ‘‘phonémiques’’ ou de leur absence sont classés en deux groupes : bằng (B) ou plat, et trắc (T) ou accentué.
De par cette complexité linguistique, la prosodie est très rigoureuse dans la poésie viêtnamienne, et particulièrement dans cette forme unique très chantante des poèmes ‘‘en six et huit pieds alternés’’, la forme la plus populaire. En outre, cette forme comporte des rimes non seulement à l’extrémité finale mais aussi à l’intérieur des vers, en alternance. Voici la règle principale des sons et des rimes des ‘‘six huit’’ :
x B/T x T x Br1
x B x T x Br1 x Br2
x B/T x T x Br2
x B x T x Br2 x Br3
x B/T x T x Br3
x B x T x Br3 x Br4
x B/T x T x Br4
x B x T x Br4 x Br5
etc…
(chacun des mots monosyllabiques comptant pour un pied est représenté par : x : son indifférent ; B : son bằng ; T : son trắc ; B/T : de préférence B, mais parfois T est admis ; Br1, Br2, Br3, Br4, Br5… : rimes 1, 2, 3, 4, 5, … obligatoirement en B).
L’exemple suivant illustre cette composition :
Gửi con cóc (Au crapaud)
Con cóc là cậu Ông Trời (Br1),
Cóc mày sao lại dở hơi (Br1) thế này (Br2),
Để cho một đảng phây phây (Br2)
Độc tài thô bạo lên thay (Br2) cháu mày (Br3)
Cóc ơi, tỉnh dậy đi ngay (Br3)
Giúp loài ếch nhái ngày mai (Br3) ‘‘cóc cần’’ (Br4)
Nhịn bao điều thối hơn phân (Br4)
Mà không phải sợ công an (Br4) làm phiền (Br5)
…
Malgré la complexité de l’exercice, les ‘‘six huit’’ constituent la forme poétique la plus répandue au Viêt Nam, allant des monumentaux romans versifiés classiques aux courtes chansons satiriques d’aujourd’hui, en passant par les proverbes et les comptines.
Nota. L’écriture viêtnamienne fut romanisée par les missionnaires jésuites au XVIIe siècle.